Áp dụng phương pháp điều tra thống kê để xác định nhu cầu sử dụng thông tin của độc giả tại các thư viện
Tìm kích thước mẫu trong nghiên cứu
Có hai phương pháp để xác định kích thước mẫu: Công thức tính kích thước mẫuHai phương pháp tìm kích thước mẫu
- Theo phương pháp xác định chungKhông biết số lượng quần thể / số lượng quần thể chưa được cập nhật.Đã biết (chính xác / ước lượng) số lượng quần thể – Công thức đơn giản cho tỉ lệPhương pháp lựa chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản
- Theo phương pháp xử lýEFARegression
Kích thước mẫu
Kích thước mẫu là số đơn vị mẫu (người, hộ gia đình) được lựa chọn vào nghiên cứu.
Bạn đang xem: ✅ Công thức Yamane ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐
- Kích thước mẫu thường được tính toán dựa trên công thức tính kích thước mẫu với các tham số phù hợp.
Công thức tính kích thước mẫu
Công thức tính kích thước mẫu được sử dụng để xác định số đơn vị mẫu tối thiểu cần thiết cho một nghiên cứu.
Lưu ý
Công thức tính kích thước mẫu phụ thuộc vào mục tiêu nghiên cứu, thiết kế nghiên cứu, biến số nghiên cứu, độ chính xác mong muốn…
Một nghiên cứu với kích thước mẫu càng lớn sẽ càng phản ánh được đặc điểm của toàn bộ quần thể nhưng lại tốn nhiều thời gian và chi phí. Vì vậy, việc chọn một kích thước mẫu phù hợp là rất quan trọng.
Hai phương pháp tìm kích thước mẫu
- Theo phương pháp xác định chung
- Theo phương pháp xử lý
1. Theo phương pháp xác định chung
- Không biết số lượng quần thể / số lượng quần thể chưa được cập nhật.
- Đã biết (chính xác / ước lượng) số lượng quần thể
- Phương pháp lựa chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản
KHÔNG BIẾT SỐ LƯỢNG QUẦN THỂ / SỐ LƯỢNG QUẦN THỂ CHƯA ĐƯỢC CẬP NHẬT.
Sử dụng công thức tính của Cochran’s (1977).
Trong đó:
n = số lượng kích thước mẫu tối thiểu
Z = mức tin cậy 95%, tại giá trị 1.96
e = giới hạn sai số mẫu (±5%)
ĐÃ BIẾT (CHÍNH XÁC / ƯỚC LƯỢNG) SỐ LƯỢNG QUẦN THỂ – CÔNG THỨC ĐƠN GIẢN CHO TỈ LỆ
Sử dụng công thức tính của Yamane (1967).

Trong đó:
n = số lượng kích thước mẫu
N = số lượng tổng quần thể
e = giới hạn sai số mẫu (±3%; ±5%; ±7%; ±10%)
- mức tin cậy 95% và giả định kết quả có ý nghĩa thống kê p= 0.5
PHƯƠNG PHÁP LỰA CHỌN MẪU NGẪU NHIÊN ĐƠN GIẢN – SIMPLE RANDOM SAMPLING
Sử dụng bảng kích thước mẫu của Krejcie and Morgan (1970).

2. Theo phương pháp xử lý
- Phân tích EFA
- Phân tích regression
EFA
Theo Hair et al. (2006) chỉ ra mẫu tối thiểu (>50), tốt hơn (>100), tỷ lệ quan sát:biến đo lường (5:1)
N=5m
Trong đó:
NN = số lượng kích thước mẫu,
mm = số lượng câu hỏi đo lường
Lưu ý
Mỗi biến đo lường cần tối thiểu 5 quan sát. Số quan sát hiểu một cách đơn giản là số phiếu khảo sát hợp lệ cần thiết;Biến đo lường đơn giản là một câu hỏi đo lường trong bảng khảo sát.
REGRESSION
Theo Tabachnick & Fidell (2007)
N>50+8m
Trong đó:
N = số lượng kích thước mẫu
m = số biến độc lập
- Cochran, W. G. (1977). Sampling techniques (3rd ed.). New York: John Wiley & Sons. ↩
- Yamane, T. (1967). Statistics: An introductory analysis (2nd ed.). New York: Harper and Row. ↩
- Krejcie, R. V., & Morgan, D. W. (1970). Determining sample size for research activities. Educational and Psychological Measurement, 30(3), 607-610. doi:10.1177/001316447003000308 ↩
- Hair J.F, Anderson, R.E., Tatham, R.L., and Black, W.C. (2006). Multivariate data analysis. Prentice-Hall, International, Inc ↩
- Tabachnick, B. G., & Fidell, L. S. (2007). Using multivariate statistics (5th ed.). Allyn & Bacon/Pearson Education. ↩
Nghiên cứu khoa học: Số đơn vị cần thiết cho từng loại thí nghiệm chăn nuôi
Để thực hiện một thí nghiệm thành công, cần có nhiều yếu tố như định hướng nghiên cứu, lựa chọn động vật, thiết kế thí nghiệm, tổ chức thực hiện, thu thập dữ liệu và viết báo cáo… Có nhiều cách để bố trí thí nghiệm trên một đối tượng thí nghiệm, tùy thuộc vào mục tiêu của đề tài.
Việc khảo sát cần có số mẫu đại diện của tổng thể để được coi là đáng tin cậy. Một cách để đánh giá sự khác biệt giữa các giá trị trung bình mẫu là cần có một số lượng mẫu đủ lớn, và cần có độ tin cậy để đánh giá mỗi đơn vị mẫu cần có bao nhiêu động vật thí nghiệm… Mục tiêu của bài viết này là đánh giá số mẫu cần thiết cho một đơn vị thí nghiệm, trên các mô hình thí nghiệm phổ biến trong chăn nuôi nói chung và trên gia súc ăn cỏ nói riêng, là cơ sở tham khảo trong lĩnh vực chăn nuôi.
1. Đối với thí nghiệm điều tra khảo sát
Khi thực hiện thí nghiệm khảo sát về hiện trạng chăn nuôi hoặc năng suất sinh trưởng và sinh sản của trâu, bò, dê… thì cần sử dụng bảng câu hỏi thiết kế sẵn và số liệu phụ. Các phương pháp điều tra có thể bao gồm tiếp xúc trực tiếp với người chăn nuôi, thu thập số liệu phụ liên quan, thiết kế bảng câu hỏi, thực hiện thử, sửa bảng câu hỏi. Sau đó, thực hiện điều tra: phỏng vấn người chăn nuôi, quan sát trực tiếp, đo đạc kỹ thuật trên số lượng mẫu cần thiết. Tiếp tục điều tra lại (nếu số liệu thu được chưa đáp ứng yêu cầu), nhập và phân tích số liệu, sau đó viết báo cáo khoa học. Số mẫu cần bao nhiêu là đủ cho một thí nghiệm khảo sát. Theo thống kê, số mẫu n ≥ 30 được coi là đại diện cho toàn bộ tổng thể. Một cách khác là sử dụng công thức Yamane (1967), nguyên tắc cơ bản của nghiên cứu khảo sát. Trong phương pháp này, kích thước mẫu phụ thuộc vào quần thể. Tuy nhiên, kích thước mẫu không tăng lên tỷ lệ với biến động trong quần thể. Nếu quần thể rất lớn, kích thước mẫu không vượt quá 400. Tuy nhiên, xác suất của sai số loại 2 (b) ảnh hưởng là 5% hoặc 10% trong toán học. Công thức kích thước mẫu toán học n = N / (1 + Ne2) với n: kích thước mẫu, N: tổng quần thể và e: xác suất xảy ra sai số loại 2 (10%). Việc sử dụng công thức này khó khăn vì cần biết số lượng tổng quần thể (N), ví dụ như 1.577 hộ chăn nuôi trâu An Giang năm 2011, sau đó cân đối kết quả trên 141 hộ chăn nuôi trâu trên 3 huyện, đảm bảo số mẫu n ≥ 30 với số trâu được khảo sát là 395 con. Kết quả hiển thị trong Bảng 1
Bảng 1: Các chiều đo của trâu theo từng tháng tuổi tại 3 huyện
Huyện
Chiều đo
Đực (tháng tuổi)
Cái (tháng tuổi)
1 đến <6
Xem thêm : ✅ Công thức toán cao cấp ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐️
6 đến <12
12 đến <24
≥24
1 đến <6
Xem thêm : ✅ Công thức toán cao cấp ⭐️⭐️⭐️⭐️⭐️
6 đến <12
12 đến <24
≥24
Tổng cộng
(3 huyện)
Số con
19
22
26
27
20
27
42
202
VN
Đực
102,00
121,00
159,00
211,00
84,80
137,00
146,00
189,00
SD
11,10
8,81
12,40
11,00
12,10
12,40
10,40
12,90
DTC
Đực
73,70
107,00
123,00
137,00
69,90
113,00
120,00
138,00
SD
12,70
5,59
10,10
10,00
11,90
10,80
10,10
9,28
Nguồn: Nguyễn Bình Trường (2015), VN: vòng ngực (cm); DTC: dài thân chéo (cm); M: trung bình chiều đo (cm); SD: độ lệch chuẩn.
So sánh kết quả trong Bảng 1 và Bảng 2, với số mẫu là 395 con trâu so với 3.028 mẫu, có thể thấy rằng độ tin cậy từ số liệu Bảng 2 rất lớn, điều đó là hợp lý. Trong cả hai thí nghiệm này, có một điểm chung là số con trâu đực:cái trên các tỉnh miền Nam là 17:18, số này nhỏ hơn 30; vòng ngực trâu trên 24 tháng tuổi tại An Giang của con trâu đực:cái là 27:207, vẫn nhỏ hơn 30. Xét về tổng thể là con trâu, số lượng trâu khảo sát từ miền Nam là 35 con và trâu An Giang trên 24 tháng tuổi là 234 con. Đây là một hạn chế không thể tránh khỏi trong các cuộc khảo sát.
Yếu tố chi phí tổ chức điều tra không thể thực hiện trên toàn bộ tổng thể vì tốn rất nhiều chi phí và thời gian, cũng như không đáp ứng được tính thời sự và tính chính xác của nghiên cứu. Việc chọn mẫu khảo sát là một phương pháp để chọn một số mẫu từ tổng thể, sau đó điều tra trực tiếp và mở rộng kết quả cho toàn bộ tổng thể. Mẫu được chọn phải ngẫu nhiên, đại diện cho tổng thể và cần phải có công thức phù hợp.
SD hay SE khi trình bày số liệu? SD (độ lệch chuẩn) đo lường sự phân tán của số liệu so với giá trị trung bình. SE (sai số chuẩn) được sử dụng trong việc suy diễn cho tổng thể. SE là tỷ lệ giữa SD và căn bậc hai của kích thước mẫu. Vì vậy, kết quả từ thống kê mô tả được trình bày dưới dạng Mean ± SD.
Vậy để thực hiện một thí nghiệm khảo sát, cần có số mẫu n ≥ 30 cho mỗi chỉ tiêu theo dõi để đạt được kết quả đáng tin cậy và giảm sai số thí nghiệm. Tuy nhiên, nếu có điều kiện, nên tăng dung lượng mẫu để đạt được kết quả tốt hơn.
2. Đối với thí nghiệm so sánh 2 giá trị trung bình
Đinh Văn Tuyến và ctv. (2008) đã so sánh khả năng tăng trọng và tiêu thụ thức ăn của hai nhóm bò lai bằng cách bố trí phân lô so sánh như Bảng 3. Đây là một thí nghiệm một chiều tác động thức ăn đến sự phát triển, nên số lượng mẫu n = 5 cho mỗi lô là hợp lý. Kết quả của bố trí thí nghiệm hiển thị trong Bảng 3 dưới đây
Bảng 3: Bố trí thí nghiệm phân lô so sánh để theo dõi sự tăng trọng
Nguồn: Đinh Văn Tuyến và ctv. (2008),
Trong trường hợp so sánh trên bò cái sinh sản, số lượng mẫu n = 5 không phù hợp. Ngoài các chỉ tiêu theo dõi trên bò cái sinh sản, cần so sánh khả năng tăng trọng của bê lai F1, như thể hiện qua Bảng 4. Đối với việc đánh giá năng suất sinh sản con lai F1 giữa 2 giống bò thịt từ bò cái địa phương, số lượng bò cái không thể dừng lại ở n = 10. Nếu chỉ sử dụng 10 bò cái cho mỗi lô thí nghiệm, tỉ lệ bê sinh ra không thể đạt đến 10, vì tỉ lệ thụ tinh trên bò là khoảng 50-60%. Nên số lượng mẫu n cần đánh giá thật sự rất ít. Trong trường hợp này, cần sử dụng số bò cái n > 10 và tốt nhất là từ 15 bò cái trở lên trong mỗi lô thí nghiệm. Thí nghiệm đã chọn n = 20 cho mỗi lô thí nghiệm nhưng tỉ lệ bê cho mỗi lô là 9 và 12. Cần có mẫu lớn trong nghiên cứu này để đạt đến kết luận chính xác.
Sơ đồ 1: Bố trí thí nghiệm phân lô so sánh trên bò cái
Nguồn: Nguyễn Bá Trung và Nguyễn Bình Trường (2014)
Mục tiêu của việc so sánh giữa hai giá trị trung bình có ý nghĩa thống kê hay không. Thông thường, dạng bố trí thí nghiệm này cần chú ý đến các đối tượng theo dõi khả năng sinh sản hoặc tăng trưởng được thể hiện trong sơ đồ trên
Trong trường hợp chỉ so sánh khả năng tăng trọng của cùng một nhóm đối tượng bò với ảnh hưởng của hai khẩu phần thức ăn, số lượng đơn vị thí nghiệm cho mỗi lô nên dừng lại ở n ≥ 5. Đối với sinh sản, cần ít nhất n ≥ 15.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Mai Văn Sánh, Trịnh Văn Trung, Nguyễn Công Định, và Nguyễn Kiêm Chiến (2008), Hiện trạng đàn trâu ở một số địa phương đại diện cho các vùng trâu to trong cả nước, Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi (Viện Chăn nuôi), Số 15, Tháng 12/2008, Trang 1-8.
Đinh Văn Tuyến, Nguyễn Thành Nam, Phạm Hùng Cường và Nguyễn Thiện Trường Giang (2008), So sánh khả năng tăng trọng và cho thịt khi vỗ béo giữa bê thuần Brahman và bê lai Sind nuôi tại Tuyên Quang. Tạp chí KHCN Chăn Nuôi số 14, tháng 10-2008, trang 1-8.
Nguyễn Xuân Trạch và Trần Văn Nhạc (2008), Ảnh hưởng của độ tuổi và mức thức ăn tinh đến tăng trọng và hiệu quả kinh tế vỗ béo bò địa phương tại huyện Krông Pa tỉnh Gia Lai. Tạp chí Khoa học và Phát triển 2008: Tập VI, Số 4, trang 343-347
Phạm Thế Huệ, Trần Quang Hạnh, Trần Quang Hân (2010), Ảnh hưởng của các mức ngọn lá sắn ủ chua trong khẩu phần đến lượng thức ăn thu nhận, khả năng sinh trưởng của bò lai Sind nuôi vỗ béo tại tỉnh Đăk Lăk. Tạp chí Khoa học và Phát triển 2012. Tập 10, số 6, trang 902-906
Nguyễn Bình Trường (2015), Một số đặc điểm về sinh trưởng, sinh sản của trâu tỉnh An Giang, Tạp chí KHKT Chăn Nuôi, 6: 80-86.
Nguyễn Bá Trung và Nguyễn Bình Trường (2014), Cải thiện giống bò thịt tỉnh An Giang ở phương thức chăn nuôi nông hộ bằng 2 công thức lai giữa bò địa phương với giống Red Brahman và Red Sindhi, Tạp chí KHKT Chăn Nuôi, 4: 19-25.
Nguyễn Bá Trung (2014), Tiêu hóa và tăng cân của bò địa phương vỗ béo bằng cỏ VA06 và thân cây bắp rau có bổ sung thức ăn công nghiệp tại nông hộ huyện Chợ Mới – An Giang, Tạp chí KHKT Chăn Nuôi, 6: 43-49.
Đậu Văn Hải và Nguyễn Thanh Vân (2016), Ảnh hưởng của tỉ lệ thức ăn thô : tinh trong khẩu phần đến lượng thức ăn tiêu thụ, tỷ lệ tiêu hóa, tăng cân và lượng khí metan thải ra trên bò lai Brahma, tạp chí khoa học công nghệ chăn nuôi – số 64, tháng 6/2016, trang 64-70
Nguyễn Văn Thu và Nguyễn Thị Kim Đông (2015), Ảnh hưởng của các mức độ protein thô trong khẩu phần bằng bổ sung bánh đa dưỡng chất đến sự tiêu thụ thức ăn, các thông số dạ tiêu và sự tích lũy đạm của bò lai Sind. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học, 37 (2015)(1): 11-17.
Nguồn: https://vatlytuoitre.com
Danh mục: Định luật